Cuộc đời cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một hành trình đầy gian truân nhưng cũng vô cùng vĩ đại, bắt đầu từ con đường khoa cử để rồi dứt khoát từ bỏ chốn quan trường, dấn thân vào con đường nhập thế, sống cuộc đời ẩn dật nhưng đầy nhiệt huyết cách mạng. Dựa trên những tư liệu lịch sử, có thể thấy, sự từ quan của cụ không phải là sự thoái lui mà là một quyết định chiến lược, một sự chuyển hướng từ mục tiêu công danh sang lý tưởng giải phóng dân tộc, một con đường riêng biệt để tìm kiếm ánh sáng cho nhân dân.
Sau khi đỗ Phó bảng năm 1901, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã sống một cuộc đời thanh bạch, từ chối ra làm quan trong suốt 5 năm. Mãi đến tháng 6 năm 1906, cụ buộc phải nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ tại kinh đô Huế. Công việc hằng ngày của cụ chỉ gói gọn trong những nghi thức lễ tế, việc học hành thi cử, hay thiên văn địa lý, bói toán. Dù làm quan, cụ Sắc đã sớm nhận ra sự vô nghĩa và tù túng của chốn quan trường dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Cảnh quan Huế bị chia cắt rõ rệt, một bên là dinh thự đồ sộ của nhà cầm quyền Pháp, một bên là đền đài, thành quách cổ kính của triều đình nhà Nguyễn đã trở thành bù nhìn. Chính từ sự nhận thức sâu sắc này, cụ đã nhiều lần bộc bạch với những người cùng chí hướng: "Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ" (nghĩa là "Quan trường là nô lệ, trong đám người nô lệ lại càng nô lệ hơn"). Câu nói ấy không chỉ thể hiện nỗi chán ghét mà còn là sự khinh bỉ của cụ đối với một chế độ đã bị mất đi quyền lực, chỉ còn là công cụ phục vụ cho kẻ ngoại bang.
Đỉnh điểm của sự xung đột giữa tư tưởng của cụ và guồng máy quan lại mục ruỗng chính là "vụ án Tạ Đức Quang" vào năm 1909, khi cụ nhậm chức Tri huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Tại đây, cụ luôn đứng về phía dân nghèo, thả những người tham gia phong trào chống thuế năm 1908 và xử phạt nghiêm khắc bọn cường hào. Vụ án Tạ Đức Quang – một tên địa chủ cường hào dựa vào thế lực của sĩ quan Pháp – đã trở thành chất xúc tác cho quyết định từ quan của cụ. Cụ đã không xét xử ngay vụ kiện của y, mà để lần lữa. Khi Tạ Đức Quang kiện thẳng lên tỉnh, cụ nổi giận, bắt y lên huyện đường đánh roi rồi tha về. Hai tháng sau y ốm rồi chết, vợ y làm đơn kiện.
Hậu quả là ngày 17/01/1910, cụ bị triều đình bãi chức, triệu hồi về kinh đô Huế để chờ làm án. Ngày 19/5/1910, Hội đồng nhiếp chánh triều đình Huế đã tuyên án cụ vào tội "lạm quyền", phạt 100 trượng, sau đổi thành giáng 4 cấp và thải hồi. Bản án đã được duyệt vào ngày 27/8/1910, chính thức biến cụ từ Tri huyện thành dân thường. Tuy nhiên, trong tờ tấu của Bộ Hình ngày 23/9/1910 có ghi: "…Tuy xét ra không có tư tình thù oán gì khác, nhưng làm như vậy thật là trái phép. Viên Tri huyện nầy là Nguyễn Sinh Huy vốn nên chiếu luật...phải phạt giáng 4 cấp rồi chuyển đi xa. Nhưng lại xét Tạ Đức Quang bị đánh roi qua hơn hai tháng sau bị ốm mất chớ không phải bị đánh mà chết tức thì, tình có thể tha thứ. Xin đợi được gia ân đổ làm giáng 4 cấp mà lưu. Truy thu mười lượng bạc cấp cho gia nhân người chết lo việc chôn cất. Lại xét viên Tri huyện nầy mới ra làm quan chưa tường dân chính, xin cho Bộ Lại tôi cải bổ kinh chức. Cải bổ kinh chức tức là đổi từ quan ở địa phương về làm quan tại kinh đô". Mặc dù được triều đình xem xét "cải bổ kinh chức", cụ Sắc đã dứt khoát từ bỏ con đường công danh. Cuộc đời cụ đã hoàn toàn bước sang một ngã rẽ mới, một con đường chỉ có nhân dân và lý tưởng giải phóng dân tộc.
Quyết định từ quan và vào Nam của cụ Nguyễn Sinh Sắc không phải là sự rút lui, mà là một bước đi đầy chủ động và dũng cảm. Cụ đi thẳng vào Nam mà không chờ "Cải bổ kinh chức" của triều đình, với mong muốn biết tin tức về người con trai mà cụ đã đặt hết niềm tin yêu – Nguyễn Tất Thành.
Cuộc hành trình này bắt đầu bằng việc cụ đến trường Dục Thanh (Phan Thiết) nơi Nguyễn Tất Thành đã dạy học, nhưng khi đến nơi thì con trai đã đi Sài Gòn. Cụ tiếp tục đến nhà ông Lê Văn Đạt (số 185/1 đường Cô Bắc, TP. Hồ Chí Minh) để tìm con. Lúc này, anh Thành đang ở Liên thành Phân Cuộc - số 5 đường Châu Văn Liêm. Cụ Huy đã ghé lại đây vài lần và để lại một thanh quế khâu, một khâu tiền điếu. Cụ cũng thuê một căn phòng nhỏ ở khách sạn Nam Kỳ và làm quen với ông Phạm Bỉnh Tánh, chủ khách sạn, để hành nghề xem mạch, kê toa thuốc bắc.
Trong thời gian này, cụ Huy đã gặp gỡ và kết nối với các bậc chí sĩ như cụ Trần Quang Nghiêm, Nguyễn Văn Thái (người Hà Đông) và đặc biệt là cụ Trương Cao Nho, người làm bếp trưởng trên nhiều tàu, để tìm cách đưa Nguyễn Tất Thành sang Pháp. Việc này đã cho thấy rõ Cụ Sắc là một người cha đầy trách nhiệm và có đạo đức, hết sức nghiêm túc đối với con. Sau một thời gian ngắn, cụ chuyển đến ở chùa Linh Sơn (gần nhà ông Đạt), tiếp tục hành nghề bốc thuốc.
Hành trình của cụ tiếp tục mở rộng, không ngừng tìm kiếm con đường cứu nước. Cụ ra Phan Thiết giải quyết một số việc, rồi bị bắt giam vào giữa năm 1912 nhưng sau đó được thả vì không có chứng cứ. Năm 1913, cụ đi làm cai phu đồn điền cao su Lộc Ninh (Thủ Dầu Một) nhưng sớm bỏ việc vì chứng kiến cảnh bóc lột tàn bạo. Đầu năm 1914, cụ cùng ông Lương Ngọc Quyến (con trai cụ Lương Văn Can) bí mật sang Phnom-pênh, Campuchia, để đàm đạo thế sự, tìm kế sách cứu nước với các nhà nho yêu nước, lưu lại trong các ngôi chùa như Sùng Phước. Cuối năm 1915, cụ về lại Sài Gòn, đến hiệu giặt của ông Ba Tiêu để tìm tin tức của con nhưng không có. Cụ đã đi khắp các nơi như Bà Điểm, Hóc Môn, vùng Bảy núi An Giang để làm nghề thuốc.
Giai đoạn từ năm 1917 đến khi mất năm 1929 là thời kỳ cụ Nguyễn Sinh Sắc sống và hoạt động mạnh mẽ nhất ở Nam Bộ. Năm 1917, cụ được ông Lê Quang Hiển, một điền chủ yêu nước ở Cao Lãnh, mời về. Tại đây, cụ sống trong một căn nhà nhỏ do ông Trần Bá Lê (Cả Nhì Ngưu) cất cho. Cụ vừa làm thuốc, vừa dạy chữ Nho và nghề thuốc cho những người có chọn lọc. Hằng đêm, ngôi nhà nhỏ ở làng Hòa An đã trở thành nơi đàm đạo của các nhà nho yêu nước từ khắp ba miền đất nước, bao gồm cụ Võ Hoành (yếu nhân phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục), cụ Lê Văn Đáng (tham gia Đông Du), và cụ Nguyễn Quang Diêu (lãnh tụ phong trào Đông Du miền Nam).
Cuối năm 1919, sau nhiều năm bặt tin, cụ tìm đến tiệm giặt ủi của ông Ba Tiêu tại Sài Gòn và nhận được tờ báo Nhân đạo có đăng "Bản yêu sách của nhân dân An Nam" ký tên Nguyễn Ái Quốc. Cụ như vỡ òa trong niềm hạnh phúc và tự hào. Từ đó, cụ lao vào hoạt động theo cách riêng của mình, đi khắp các tỉnh Nam Bộ và cả Campuchia để truyền bá tư tưởng yêu nước. Cụ sớm nhận ra rằng "chủ nghĩa yêu nước, phật giáo và nông dân" là ba yếu tố quan trọng để thực hiện lý tưởng cách mạng của mình.
Cụ thường lui tới các ngôi chùa, biến chúng thành trung tâm hoạt động cách mạng:
-
Chùa Kim Tiên (Tiền Giang): Năm 1922, khi chùa trùng tu, cụ đã viết đôi liễn để tặng chùa, mang ý nghĩa "tu là nhập thế", rằng người tu hành phải xả thân cứu đời, cứu dân, không thể chỉ lo tụng kinh gõ mõ trong khi dân tộc đang bị đọa đày.
-
Chùa Hòa Thạnh (An Giang): Từ năm 1921-1923, chùa là nơi cụ tránh sự theo dõi của mật thám và là địa điểm gặp gỡ, liên lạc với các sĩ phu yêu nước.
-
Chùa Hội Khánh (Thủ Dầu Một): Từ 1923-1926, cụ cùng Hòa thượng Từ Văn và các nhà yêu nước khác lập ra Hội danh dự yêu nước để truyền bá tư tưởng yêu nước. Tại đây, cụ để lại hai hiện vật là quyển sách xem địa lý và la kinh xem bói toán cho nhân dân.
-
Chùa Tuyên Linh (Vĩnh Long): Cụ tá túc lâu nhất từ năm 1927-1929, mở lớp dạy học, bốc thuốc và cùng Hòa thượng Lê Khánh Hòa bàn việc dân, việc nước.
Trong những năm cuối đời (1927-1929), cụ Nguyễn Sinh Sắc chọn Hòa An, Cao Lãnh, làm nơi sinh sống và hoạt động lâu dài. Tại đây, cụ thường xuyên trao đổi, bàn bạc với các thanh niên yêu nước như Phạm Hữu Lầu và Lưu Kim Phong, góp phần hình thành một bộ phận tiền thân của tổ chức cách mạng ở địa phương. Cụ cũng đến chùa Giồng Thành (An Giang) và kết thân với nhà sư Đạt Điền, một người có tư tưởng tiến bộ. Vào tháng 4 và tháng 5 năm 1928, cụ thậm chí còn gửi 6 bức thư sang bà cử Can ở Phnom-Pênh để liên lạc với Nguyễn Ái Quốc.
Đêm 26, rạng sáng ngày 27/11/1929, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã trút hơi thở cuối cùng tại Hòa An - Cao Lãnh, hưởng thọ 67 tuổi. Cuộc đời cụ đã khép lại sau một hành trình dài cống hiến, từ việc giáo dục con cái đến việc dấn thân vào con đường yêu nước một cách thầm lặng.
Hành trình từ quan và cuộc sống ẩn dật của cụ Nguyễn Sinh Sắc không phải là sự quay lưng với thời cuộc, mà là một sự lựa chọn đầy ý thức và dũng cảm. Từ bỏ chốn quan trường thối nát, cụ trở về với nhân dân, sống một cuộc đời giản dị nhưng đầy ý nghĩa, dùng tài năng và uy tín của mình để gieo mầm cách mạng. Mặc dù không trực tiếp cầm súng hay tham gia vào các phong trào vũ trang, nhưng những đóng góp của cụ, từ việc kết nối các nhà yêu nước, biến các ngôi chùa thành trung tâm cách mạng, đến việc truyền bá tư tưởng yêu nước cho quần chúng, đã tạo nên một nền tảng vững chắc cho các phong trào sau này.
Di sản lớn nhất của cụ Nguyễn Sinh Sắc không nằm ở chức tước hay những vinh quang bề ngoài, mà ở chính con đường cụ đã chọn: sống vì dân, vì nước. Cụ đã chứng minh rằng lòng yêu nước không chỉ nằm ở nơi quan trường hay trên chiến trường, mà còn có thể được thể hiện qua một cuộc đời thầm lặng, gần gũi và sâu sắc với nhân dân. Những gì cụ đã làm không chỉ là một bài học về đạo đức, về lý tưởng mà còn là nguồn cảm hứng vô tận, là nền tảng vững chắc cho con đường cách mạng mà con trai cụ đã đi, để rồi trở thành một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
