Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là một nhà nho hiếu học, một vị quan thanh liêm, mà trên hết, cụ còn là một người thầy vĩ đại. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, từ người cha dạy con, nhà nho truyền thụ kiến thức, cho đến người chiến sĩ trên con đường cứu nước, cụ luôn thể hiện vai trò của một nhà giáo dục, người đã dùng cả cuộc đời mình để truyền bá tư tưởng nhân nghĩa, lòng yêu nước, và khát vọng độc lập tự do. Con đường giáo dục của cụ Nguyễn Sinh Sắc không bó hẹp trong khuôn viên trường học, mà trải dài khắp các nẻo đường đất nước, thấm nhuần vào tâm hồn của lớp lớp thế hệ, đặc biệt là người con trai Nguyễn Tất Thành.
Ngay từ khi còn là một nho sĩ miệt mài kinh sử, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã dành trọn tâm huyết để dạy dỗ các con. Trong những năm tháng sống tại kinh đô Huế, cụ vừa miệt mài ôn luyện để chuẩn bị cho kỳ thi Hội, vừa tranh thủ dạy thêm cho các con về chữ Hán, nhân nghĩa, và lẽ chính tà ở đời. Những bài học ấy không chỉ là kiến thức sách vở mà còn là những kinh nghiệm quý báu từ cuộc sống. Trên chặng đường hơn một tháng đi bộ từ quê hương xứ Nghệ vào Huế, cụ đã tranh thủ dạy các con về vẻ đẹp hùng vĩ của non sông đất nước và công lao chiến đấu chống giặc ngoại xâm của ông cha ta, gieo vào tâm hồn con trẻ những tình yêu sâu sắc đối với quê hương.
Vào cuối năm 1898, khi cuộc sống ở Huế trở nên khó khăn sau kỳ thi Hội Mậu Tuất không thành công và cụ bà Hoàng Thị Loan thường xuyên đau yếu, cụ Sắc đã đưa hai người con trai là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung về làng Dương Nỗ (nay thuộc TP. Huế) để mở lớp dạy học. Tại đây, cụ không chỉ truyền thụ kiến thức cho hai con mình mà còn dạy thêm cho ba người con của ông Độ - một người bạn thân. Cụ thường lấy chính cuộc sống bản thân mình để dạy các con về đức tính kiên trì, chịu khó học tập. Hằng ngày, ngoài giờ dạy chính thức, ban đêm cụ còn hướng dẫn thêm cho các học trò. Ngoài chữ nghĩa, cụ luôn chú trọng dạy các con điều nhân nghĩa, nỗi vinh nhục và lẽ chánh tà ở đời.
Những buổi tọa đàm với các chí sĩ, các nhà nho yêu nước tại ngôi nhà Phó bảng năm gian ở làng Kim Liên cũng là những bài học vô giá đối với cậu bé Nguyễn Tất Thành. Trong những buổi ấy, cậu bé thường được hầu trà, lắng nghe những trăn trở của cha và các bậc tiền bối về thời cuộc, từ đó thấm nhuần tư tưởng yêu nước, thương dân. Chính từ nhận thức và tư tưởng của cụ Sắc đã tác động trực tiếp đến tư tưởng và lòng yêu nước của các con, đặc biệt là với Nguyễn Tất Thành. Cụ cùng các con đi nhiều nơi trong vùng, gặp gỡ các nhân sĩ yêu nước và thăm các di tích lịch sử ở Nghệ An. Đây là thời kỳ cụ tìm đọc các Tân Thư, tiếp xúc nhiều với các nhà nho yêu nước, mở rộng tầm nhìn để rồi truyền lại cho các con.
Sau khi bị bãi chức Tri huyện Bình Khê vào năm 1910, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã đưa ra một quyết định mang tính bước ngoặt: từ bỏ hoàn toàn con đường khoa bảng và quan trường, dấn thân vào con đường nhập thế. Đây cũng là lúc vai trò người thầy của cụ được thể hiện rõ ràng và sâu sắc hơn bao giờ hết.
Tại Bình Định, khi Nguyễn Tất Thành đến thăm, cụ đã hỏi con: "Con đến đây làm gì?". Khi nghe con trả lời: "Con đến đây tìm cha", cụ Sắc đã trìu mến nhưng dứt khoát nói: "Nước mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích gì?" Câu nói ấy không chỉ là một lời dạy dỗ mà còn là một mệnh lệnh thiêng liêng, thôi thúc người con trai dấn thân vào con đường cứu nước.
Sau đó, cụ đi vào Nam Bộ và tiếp tục sự nghiệp giáo dục của mình, nhưng với một mục đích lớn hơn: truyền bá tư tưởng yêu nước. Cụ thường lui tới các ngôi chùa, liên hệ với các nhà sư, nhà nho yêu nước để mở các lớp dạy chữ Hán, giảng kinh Phật, bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Cụ Sắc đã nhận ra rằng phương thức cho hoạt động yêu nước của mình lúc này là: "Chủ nghĩa yêu nước, phật giáo và nông dân". Hoạt động của cụ thời kỳ này là tham gia tích cực phong trào chấn hưng đạo Phật tại Nam Bộ.
Những ngôi chùa nơi cụ từng lưu lại đều ghi dấu những bài học quý giá:
-
Tại chùa Hội Khánh (Bình Dương): Từ năm 1923 đến 1926, cụ cùng Hòa thượng Từ Văn và nhà yêu nước Tú Cúc lập ra "Hội danh dự yêu nước" để truyền bá tư tưởng này. Tại đây, cụ dạy chữ Hán, giảng kinh Phật, nhưng mục đích chính là để truyền bá tư tưởng yêu nước.
-
Tại chùa Kim Tiên (Tiền Giang): Cụ đã để lại đôi liễn quý giá khi chùa trùng tu lại vào năm 1922. Qua đôi liễn này, cụ đã trình bày quan niệm tu là phải nhập thế, phải xả thân cứu đời, bởi "cái nạn lớn nhất là mất nước, là đem thân làm nô lệ cho ngoại bang". Đối với cụ, người tu hành chân chính là người phải dũng cảm đối mặt và giải quyết cái nạn lớn đó, chứ không phải đóng cửa chùa lo tụng kinh gõ mõ.
-
Tại chùa Tuyên Linh (Bến Tre): Từ năm 1927 đến 1929, cụ đã mở lớp dạy học, xem mạch bốc thuốc cho nhân dân và cùng Hòa thượng Lê Khánh Hòa bàn việc dân, việc nước.
-
Tại chùa Giồng Thành (An Giang) và chùa Hòa Thạnh (An Giang): Cụ cũng đã đến đây để liên lạc với các nhà sư, sĩ phu yêu nước, truyền thụ tinh thần yêu nước và bất hợp tác với thực dân Pháp.
Năm 1917, theo lời mời của ông Lê Quang Hiển – một điền chủ yêu nước ở Cao Lãnh, cụ Sắc đã về đây và quyết định chọn nơi này làm nơi sinh sống, hoạt động và gắn bó lâu dài từ năm 1927. Với phong cách giản dị, giàu lòng yêu nước thương dân, cụ đã nhanh chóng chiếm được tình cảm của nhân dân.
Tại ngôi nhà nhỏ ở làng Hòa An, cụ không chỉ tiếp tục công việc làm thuốc, dạy nghề thuốc, dạy chữ Nho mà còn biến nơi đây thành một trung tâm kết nối các nhà yêu nước trên khắp cả nước. Hằng đêm, bên chung trà, ly rượu, cụ cùng các nhà nho như cụ Võ Hoành (từ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục), cụ Lê Văn Đáng (từ phong trào Đông Du) và cụ Nguyễn Quang Diêu (lãnh tụ phong trào Đông Du miền Nam) ưu tư, trăn trở bàn việc nước, việc đời.
Thành tựu lớn nhất trong giai đoạn cuối đời của cụ là việc đã cùng cụ Lê Văn Đáng và nhóm thanh niên yêu nước của đồng chí Phạm Hữu Lầu, Lưu Kim Phong, đưa nhân dân Cao Lãnh bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ chuyển tiếp từ chủ nghĩa yêu nước sang việc hình thành một bộ phận tiền thân của chính đảng cách mạng ở địa phương.
Từ một cậu bé mồ côi hiếu học đến một người thầy vĩ đại, sự nghiệp giáo dục và dạy học của cụ Nguyễn Sinh Sắc là một hành trình dài và đầy ý nghĩa. Cụ không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn gieo mầm tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa vào tâm hồn các thế hệ. Những bài học của cụ được truyền tải qua chính cuộc đời mình, từ tấm gương vượt khó học tập, sự từ bỏ danh lợi quan trường để về với dân, đến việc biến mỗi ngôi chùa, mỗi góc vườn thành một lớp học về đạo làm người và đạo yêu nước.
Có thể nói, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã hoàn thành sứ mệnh của một người thầy bằng cách sống một cuộc đời trọn vẹn vì nhân dân và dân tộc. Di sản lớn nhất của cụ không phải là những tấm bằng cử nhân, phó bảng, mà chính là những tư tưởng cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn mà cụ đã vun đắp, góp phần tạo nên những người con ưu tú, những con người đã dấn thân vào con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
